Di sản Jean_Calvin

Một con tem của Đức năm 1964 tưởng niệm John Calvin.

Sau khi Calvin và người kế nhiệm, Beza, qua đời, hội đồng thành phố Geneva dần dà giành quyền kiểm soát các lĩnh vực trước đây thuộc thẩm quyền giáo hội. Tình trạng thế tục hóa ngày càng gia tăng cùng lúc với sự suy thoái của hội thánh. Ngay cả uy tín học thuật của Geneva cũng bị phủ bóng bởi các đại học LeidenHeidelberg, những đại học này trở nên thành trì của tư tưởng Calvin, lần đầu tiên được mệnh danh là Thần học Calvin vào năm 1552 bởi Joachim Westphal. Đến năm 1585 Geneva, từng là suối nguồn của phong trào cải cách, chỉ còn là một biểu tượng.[102]

Sinh thời, Calvin luôn cảnh báo chống lại mọi nỗ lực miêu tả ông như là một "thần tượng" và Geneva là một "Jerusalem mới". Ông khuyến khích mọi người cố thích ứng với môi trường sống của mình. Ông đã khuyên những người tị nạn nói tiếng Pháp đang định cư ở Wesel, Đức, nên gia nhập Giáo hội Luther. Bất kể những dị biệt với Giáo hội Luther, Calvin tin rằng họ là hội thánh thật của Chúa. Sự nhìn nhận của Calvin đối với nhu cầu thích ứng với các điều kiện tại mỗi địa phương là đặc điểm quan trọng của phong trào cải cách đang lan tỏa khắp châu Âu.[103]

Nhờ nỗ lực truyền giáo của Calvin ở Pháp, chương trình cải cách của ông cuối cùng cũng tiến đến những tỉnh nói tiếng Pháp ở Hà Lan. Thần học Calvin được chấp nhận trong lãnh thổ Palatinate của Vương hầu Frederick III, dẫn đến việc hình thành sách giáo lý Heidelberg năm 1563. Sách giáo lý này và Tín điều Belgic năm 1571 trở thành chuẩn mực tuyên tín tại hội nghị thứ nhất của Giáo hội Cải cách Hà Lan. Những nhà thần học hàng đầu ở Anh (Martin Bucer, Peter Martyr, Jan Laski) và Scotland (John Knox) đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Calvin. Trong cuộc Nội chiến Anh, những người Thanh giáo đã soạn bản Tín điều Westminster, trở nên chuẩn mực tuyên tín cho các giáo hội Trưởng Lão trong thế giới nói tiếng Anh. Sau khi được vững lập tại Âu châu, phong trào Trưởng Lão lan tỏa đến Bắc Mỹ, Nam Phi, và Hàn Quốc.[104]

Sinh sau Martin Luther 26 năm, John Calvin ở trong số những nhà cải cách thuộc thế hệ thứ hai, khi Giáo hội Công giáo đã phục hồi đủ để có thể trấn áp cộng đồng Kháng Cách đang lúc chia rẽ và suy yếu. Calvin đã hoạt động hiệu quả để củng cố, tái tổ chức, và phát triển những nỗ lực cải cách. Ông cũng thành lập một giáo hội bền vững và lan tỏa đến nhiều nơi trên thế giới.[105] Calvin không sống lâu đủ để nhìn thấy những thành quả ban đầu của ông phát triển thành một phong trào quốc tế; nhưng sau khi mất, tư tưởng Calvin vượt tầm thành phố Geneva, gặt hái những thành công bên ngoài địa giới của nó, và thiết lập cho mình những đặc thù của một hệ phái trong cộng đồng Kháng Cách.[106]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Jean_Calvin http://books.google.com/books?id=IHojPhHw3pgC&pg=P... http://books.google.com/books?id=NJ7UJGX8otkC&pg=P... http://books.google.com/books?id=g46euaF7HAsC&pg=P... http://www.reformedsermonarchives.com/calvintitle.... http://www.godssovereigntyinvietnam.wordpress.com/ http://www.calvin2009.fr/ http://archives.strasbourg.fr/calvin.htm http://www.ccel.org/c/calvin/ http://www.ccel.org/ccel/calvin/calcom08.vi.html http://www.ccel.org/ccel/schaff/hcc8.iv.xiii.xii.h...